Thứ Năm, 24 tháng 6, 2010

Thiếu công trình công bố quốc tế, bằng TS vô giá trị

Thiếu công trình công bố quốc tế, bằng TS vô giá trị

29/05/2010 06:38:47

- Đối với các Tiến sĩ (TS) tốt nghiệp mà không có công trình nghiên cứu nào được công bố quốc tế, hầu hết là họ làm những việc bình thường trong các công ty không liên quan đến nghiên cứu khoa học, và cũng chẳng có ai gọi họ là TS.

LTS: Chất lượng giáo dục đại học đang là vấn đề được dư luận Việt Nam hết sức quan tâm. TS Nguyễn Văn Thuận, Giảng viên Khoa công nghệ sinh học động vật tại Đại học Kiến Quốc (Konkuk), Seoul, Hàn Quốc cho rằng, về sự thất bại của giáo dục, vấn đề đầu tiên phải đi sâu phân tích nguyên nhân là Người Thầy. Ông đã gửi tới Bee loạt bài về Người Thầy trong môi trường giáo dục Đại học nhìn từ Nhật Bản và Hàn Quốc.

Để trở thành một Tiến sĩ tại Nhật Bản và Hàn Quốc

Thông thường chương trình Tiến sĩ tại các nước này kéo dài 3 năm (dĩ nhiên là phải có 2 năm để hoàn thành luận văn Thạc sĩ trước đó trong cùng một chuyên ngành). Nếu các nghiên cứu sinh Tiến sĩ trong thời gian học có 5 công trình nghiên cứu được công bố trên các tạp chí quốc tế thì họ có quyền xin tham gia bảo vệ luận án TS chỉ trong 2 năm. (Trường hợp này rất ít và chỉ có những nghiên cứu sinh TS được làm luận án TS trong những Viện nghiên cứu danh tiếng và trong những nhóm khoa học gia danh tiếng về khoa học thì mới có thể đạt được).

Nếu có được 2-3 công trình nghiên cứu công bố trên các tạp chí quốc tế thì họ có thể bảo vệ thành công luận án TS trong 3 năm. Trên đây là những TS tốt nghiệp với thành tích xuất sắc (tương đương với chuẩn mực quốc tế). Tuy nhiên cũng tùy theo yêu cầu của từng khoa và từng bộ môn trong trường.

a
Tại Nhật Bản và Hàn Quốc, bằng TS hoàn toàn không có giá trị khi nghiên cứu sinh tốt nghiệp TS với 0 bài báo quốc tế với tên tác giả đứng đầu tiên.

Trong thời gian gần đây, việc công bố các bài báo trong tạp chí quốc tế trở nên khó khăn hơn cho nên một số Khoa và bộ môn giảm xuống đến mức tối thiểu là có một bài báo đã được công bố trên tạp chí quốc tế và một công trình nghiên cứu đang đệ trình để công bố.

Một lý do nữa là đề tài đăng ký TS chỉ có giá trị trong 6 năm, nếu không tốt nghiệp được thì phải xóa bỏ và làm mới. Do đó có những nghiên cứu sinh sau 5-6 năm mà không thể công bố một công trình nào thì bất đắc dĩ buộc GS hướng dẫn cho họ tốt nghiêp với 0 công trình nghiên cứu. Thường thì những TS này rất khó có cơ hội xin việc liên quan đến nghiên cứu và dĩ nhiên trường đại học không bao giờ nhận loại TS này để làm nghiên cứu sau TS (Postdoctoral).

Ở Nhật Bản và Hàn Quốc, khi xét đơn xin việc của một TS vào một vị trí trong công ty hoặc cơ sở nghiên cứu, người ta chỉ quan tâm đến TS tốt nghiệp mấy năm, 2-3 năm thì tốt nếu 4-6 năm có nghĩa công trình nghiên cứu ít hoặc không có. Như vậy bằng TS hoàn toàn không có giá trị khi nghiên cứu sinh tốt nghiệp TS với 0 bài báo quốc tế với tên tác giả đứng đầu tiên (First author).

TS tốt nghiệp yếu không có cơ hội tiếp tục nghiên cứu khoa học


Sau khi tốt nghiệp TS, nếu ứng viên nào có từ 2-4 bài báo quốc tế đều có mong muốn tiếp tục làm nghiên cứu sau Tiến sĩ (Postdoctoral) và sẽ được GS của họ hoặc các cơ sở nghiên cứu khác mời nghiên cứu sau TS.

Đối với các TS tốt nghiệp dạng yếu kém như kể trên (không công trình nghiên cứu được công bố quốc tế) thì hầu hết là họ làm những việc bình thường trong các công ty không liên quan đến nghiên cứu khoa học, và cũng chẳng có ai gọi họ là TS cho dù họ có mảnh bằng TS.

Một thí dụ rất rõ mà các NCSTS của Việt Nam khi du học tại Nhật Bản (và các nước khác trên thế giới) điều biết sau khi tốt nghiệp TS và có công trình công bố trên các tạp chí quốc tế đều được GS hướng dẫn xin học bổng để làm NCS sau TS (ở Nhật thì hầu hết nhận được học bổng JSPS, của bộ Giáo dục và Đào tạo Nhật Bản).

Còn các NCSTS tốt nghiệp TS nhưng không có báo quốc tế thì cho dù GS hướng dẫn ưu ái mấy cũng sẽ không bao giờ nhận được học bổng NCS sau TS. Như vậy chúng ta phải hiểu rằng một TS thật sự trong nghiên cứu khoa học là một TS có các công trình công bố quốc tế với tên tác giả đầu tiên chứ không phải là những người được cấp bằng TS.

Thông thường thì những TS khá giỏi sẽ thích đi làm nghiên cứu sau TS tại các trường và Viện nghiên cứu khác nơi họ đã tốt nghiệp TS để nâng cao khả năng tự nghiên cứu của mình, và hầu hết GS hướng dẫn của họ cũng khuyến cáo như vậy hơn là làm nghiên cứu sau TS tại chỗ đã tốt nghiệp TS.

Vì như vậy họ sẽ học được những đều mới so với nơi họ làm luận án TS và cũng là một cách để khẳng định được sự độc lập trong hướng nghiên cứu của mình. Trong khi đó nếu họ vẫn cứ tiếp tục làm nghiên cứu sau Tiến sĩ tại nơi họ đã làm luận án TS thì sẽ rất khó cho con đường phát triển khoa học trong tương lai sau này của họ.

Và 4-6 năm để trở thành GS


Trên thế giới nói chung có 2 hệ thống khoa bảng cho học hàm của hệ thống giáo dục. Nhật Bản và Hàn Quốc là hai đại diện của hai mô hình này.

1. Với các nước theo hệ thống khoa bảng của Pháp (Nhật Bản cũng theo hệ thống này), là trong một phòng thí nghiệm có cả giảng viên (lecture), GS dự khuyết (Assitant Professor), Phó GS (Associate Professor) và GS (full-professor) và luôn phụ thuộc vào GS (trưởng phòng thí nghiệm). Chỉ khi nào vị GS này về hưu thì PGS mới được phong GS.

Cho nên có một câu chuyện vui trong giới khoa học Nhật Bản là tin vui lớn nhất của một PGS là khi buổi sáng đọc báo thấy có đăng tin cáo phó GS qua đời. Tuy nhiên hệ thống khoa bản này có rất nhiều điểm yếu là không kích thích sự vươn lên và cạnh tranh của các PGS trong khoa học vì vẫn còn quan điểm sống lâu lên lão làng, đồng thời tạo ra sự lười biến học hỏi và ỷ lại của vị GS đứng đầu đối với những ngưòi phụ tá.

Vì nếu như các PGS và GS chỉ hơn nhau dưới 10 tuổi thì khi vị GS về hưu (63-65) thì các PGS khi được thay thế và phong GS thì cũng đã gần đến tuổi hưu. Hiện nay Nhật Bản cũng đang đổi mới để phá bỏ cơ chế này.

2. Với các nước theo hệ thống của Mỹ (trong đó có Hàn Quốc) thì GS dự khuyết, PGS và GS không phụ thuộc vào nhau và nghiên cứu độc lập. Tuy nhiên khi mới nhận vào sẽ có thử thách thông qua các bước sau.

Học hàm được phong đầu tiên là Assistant Professor (tạm dịch là GS dự khuyết) và được thử thách trong 4 năm. Trong 4 năm đó nếu (A) việc giảng dạy tốt (được sinh viên đánh giá từ khá trở lên), (B) nghiên cứu tốt (phải có vài công trình công bố quốc tế với tác giả đầu tiên (first author) hoặc là tác giả chịu trách nhiệm về khoa học của công trình công bố (Corresponding author), (C) kêu gọi được các dự án khoa học và (D) hoạt động xây dựng trường khoa tốt thì sẽ được xét lên Associate Professor (tạm dịch PGS). Trong đó hai chỉ tiêu A và B là quan trọng nhất.

Giai đoạn thử thách của PGS khoảng 4-6 năm tùy theo mỗi trường đại học. Trong thời đó nếu cũng đạt những thành tích giảng dạy từ khá trở lên và nghiên cứu cũng có nhiều công trình công bố quốc tế thì sẽ được xét lên Professor.

Tuy nhiên 2 năm đầu của Professor cũng phải chịu thử thách, nếu cũng vượt qua với những thành tích khá giỏi trong giảng dạy và nghiên cứu như trên thì sẽ trở thành full Professor.

Như vậy để trở thành một GS thực thụ thì các nhà khoa học phải phấn đấu liên tục trong khoa học khoảng 15-16 năm sau khi đã tốt nghiệp TS (5 năm nghiên cứu sau TS, 4 năm Assistant Professor, 5 năm Associate Professor và 2 năm thử thách Professor), và số công trình nghiên cứu khoa học được công bố trên các tạp chí quốc tế trong chuyên ngành phải trên 50 (khoảng trên 20 bài với tác giả đầu tiên, trên 30 bài với dạng cộng tác viên (Co-author) hoặc chịu trách nhiệm khoa học chính trong bài báo (Correspondence author).

TS Nguyễn Văn Thuận, tốt nghiệp Ph.D tại Đại học Kobe vào năm 2002. Sau đó làm nghiên cứu sau Tiến sĩ tại Viện Công nghệ Sinh học (CDB), thuộc Viện RIKEN Nhật Bản từ năm 2002-2007. Từ tháng 3 năm 2007 đến nay, TS Nguyễn Văn Thuận giảng dạy tại Khoa công nghệ sinh học động vật tại Đại học Kiến Quốc (Konkuk), Seoul, Hàn Quốc.

Chuyên ngành nghiên cứu Tế bào gốc, tế bào giao tử và công nghệ dược phẩm tái tạo (Stem cells, Germ cells and regenerative biomedicine). Giảng dạy các môn học về: tế bào gốc, biệt hóa tế bào, nhân bản vô tính và ứng dụng, kỹ thuật công nghệ sinh học sinh sản cho chương trình MSc và Ph.D. Đảm nhiệm các môn học Developmental Biology, Reproductive Biotechnology, Physiology of Reproduction cho học sinh đại học.

TS Nguyễn Văn Thuận hiện là Chủ tịch của Hiệp hội Công nghệ Sinh học Sinh sản Châu Á.

Kỳ tiếp: Trường ĐH Nhật Bản, Hàn Quốc chọn giảng viên như thế nào?

TS Nguyễn Văn Thuận

Không có nhận xét nào: