Thứ Sáu, 14 tháng 1, 2011

Tham luận của Bộ trưởng Bộ KH&ĐT tư tại Đại hội Đảng XI

Tham luận của Bộ trưởng Bộ KH&ĐT tư tại Đại hội Đảng XI

13/01/2011 23:09
"Nhìn lại 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010 -Những bài học rút ra để thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2011-2020" là tiêu đề Báo cáo tham luận của đồng chí Võ Hồng Phúc, Uỷ viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư tại phiên thảo luận tại Hội trường Đại hội XI chiều ngày 13/1.

Dưới đây là nội dung chính của bản tham luận:

Việt Nam dang tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước với mục tiêu đưa Việt Nam cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại; tiềm lực kinh tế được tăng cường; nguồn lực con người, năng lực khoa học và công nghệ, kết cấu hạ tầng, thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa được hình thành và phát triển.

Đồng chí Võ Hồng Phúc, Ủy viên Trung ương Đảng, Bộ trưởng Bộ Kế hoạch và Đầu tư đọc tham luận tại Đại hội Đảng XI (Ảnh: TTXVN).
Nhìn lại 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001- 2010, hiện nay, Việt Nam đang đứng ở đâu trong bản đồ kinh tế, xã hội của thế giới?

I. Tình hình và bối cảnh đất nước khi bước vào thời kỳ chiến lược 2011-2020

1. Tiềm lực kinh tế được nâng cao, đất nước đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển. Sau hơn 20 năm đổi mới, nhất là 10 năm thực hiện Chiến lược phát triển kinh tế-xã hội 2001-2010, tiềm lực kinh tế Việt Nam được nâng cao, đất nước đã ra khỏi tình trạng nước nghèo, kém phát triển. Thời kỳ 2001 - 2005 đạt tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm là 7,5% và hai năm 2006 - 2007 đạt tốc độ tăng trưởng GDP trên 8%. Các năm 2008 - 2010, do tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - kinh tế toàn cầu, tốc độ tăng trưởng chỉ đạt 5,96% (năm 2009 đạt 5,3% và năm 2010 đạt 6,78%); bình quân 5 năm (2006 - 2010) đạt 7%/năm và 10 năm (2001 - 2010) tăng trưởng 7,26%/năm, đạt mục tiêu chiến lược đã đề ra. Việt Nam là một trong những nước có tốc độ tăng trưởng kinh tế nhanh so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Tổng sản phẩm trong nước (GDP) năm 2010 theo giá thực tế đạt trên 101,6 tỷ USD, GDP bình quân đầu người đạt 1.160 USD. Nước ta đã ra khỏi nhóm nước đang phát triển có thu nhập thấp. Vốn đầu tư toàn xã hội tăng cao, bằng khoảng 40,5% GDP; Năng lực sản xuất nhiều ngành kinh tế tăng đáng kể. Kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định, một số cân đối lớn của nền kinh tế (ngân sách Nhà nước, cán cân thanh toán tổng thể, nợ quốc gia và dự trữ ngoại tệ,...) cơ bản được bảo đảm. Kết cấu hạ tầng có bước phát triển quan trọng. Nhiều công trình mới đã phát huy tác dụng. Tỷ lệ đô thị hoá tăng từ 24,2% năm 2000 lên trên 30% năm 2010. Diện tích nhà ở tăng từ 8 m2/người lên 12,5 m2/người. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tích cực, tỷ trọng ngành công nghiệp và xây dựng trong cơ cấu GDP tăng từ 36,7% năm 2000 lên 41,1% năm 2010; tỷ trọng nông, lâm, ngư nghiệp giảm từ 24,5% xuống còn khoảng 21,6% và tỷ trọng dịch vụ giữ mức 38,3%. Tỷ lệ lao động nông nghiệp giảm từ 65,1% năm 2000 xuống 57,1% năm 2005 và xuống còn 48,2% năm 2010.

Tuy nhiên chất lượng tăng trưởng, năng suất, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế còn thấp, chậm được cải thiện, các cân đối vĩ mô chưa thật sự vững chắc. Công tác quy hoạch, kế hoạch và việc huy động, sử dụng các nguồn lực còn hạn chế, kém hiệu quả. Tăng trưởng kinh tế chủ yếu dựa vào yếu tố phát triển theo chiều rộng, chậm chuyển sang phát triển theo chiều sâu. Tăng trưởng chủ yếu dựa vào khai thác tài nguyên, công nghệ thấp, tiêu hao vật chất cao và sử dụng nhiều vốn; năng suất lao động xã hội và khả năng cạnh tranh của nền kinh tế, doanh nghiệp và sản phẩm còn thấp, chậm cải thiện. Sản phẩm xuất khẩu chủ yếu là nguyên liệu thô và hàng công nghiệp chủ yếu là gia công, hàm lượng công nghệ thấp và giá trị gia tăng thấp. Năng suất lao động còn rất thấp so với các nước trong khu vực, năng suất lao động của Trung Quốc gấp 2,6 lần và Thái Lan gấp 4,3 lần năng suất lao động của Việt Nam. Tiêu hao năng lượng lớn, để tạo ra một 1 USD GDP, Việt Nam đã phải tốn lượng điện năng bằng 4,65 lần Hồng Kông, gần 2,10 lần Hàn Quốc, 3,12 lần Singapore, khoảng 1,37 lần Thái Lan và 1,69 lần Malaysia.

Kết cấu hạ tầng phát triển chậm, chất lượng thấp, thiếu đồng bộ đang cản trở sự phát triển. Mạng lưới giao thông chưa hoàn chỉnh, chất lượng thấp, chưa có đường bộ cao tốc, đường sắt cao tốc, hải cảng và sân bay hiện đại. Kết cấu hạ tầng đô thị, nhất là ở các đô thị lớn vừa thiếu đồng bộ, vừa kém chất lượng đang gây ách tắc cho phát triển. Nguồn và lưới điện chưa đáp ứng kịp yêu cầu của sản xuất và đời sống nhân dân. Sản lượng điện bình quân đầu người một năm của Việt Nam mới ở mức 692,5 kwh, còn thấp so với nhiều nước trên thế giới. Hệ thống thủy lợi chưa đồng bộ, quản lý chưa tốt và hiệu quả sử dụng chưa cao. Hạ tầng đô thị, đặc biệt là giao thông, cấp và thoát nước ở các đô thị vừa thiếu, không đồng bộ, vừa kém chất lượng và quá tải, đang gây ách tắc cho phát triển.

Nền tảng để Việt Nam trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa được hình thành đầy đủ. Vẫn đang tiềm ẩn nhũng yếu tố gây mất ổn định chính trị - xã hội và đe dọa chủ quyền quốc gia.

2. Thể chế kinh tế thị trường từng bước được hình thành và phát triển. Đường lối đổi mới của Đảng được thể chế hóa thành pháp luật, tạo hành lang pháp lý cho việc hình thành và phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Hệ thống luật pháp từng bước được xây dựng tạo hành lang pháp lý cho nền kinh tế thị trường hình thành và có bước phát triển mới. Thời kỳ 2001 - 2010, đã tập trung vào việc xác lập và xây dựng thể chế, trong đó ưu tiên xây dựng hệ thống pháp luật và các cơ chế, chính sách; Từ đầu năm 2001 đến tháng 07/2009, đã ban hành 13 Luật, 337 Nghị quyết, 46 Pháp lệnh, 1.141 Nghị định và hàng chục nghìn các văn bản quy phạm pháp luật khác. Chính phủ cũng đã chỉ đạo việc rà soát, hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp luật theo từng ngành, lĩnh vực tạo cơ sở pháp lý cho việc vận hành nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, nâng cao khả năng thu hút các nguồn lực phát triển cho sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa.

Quan hệ sản xuất ngày càng phù hợp hơn, nền kinh tế đa sở hữu, nhiều thành phần đan xen có bước phát triển mạnh. Tình trạng phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế từng bước được xoá bỏ. Kinh tế nhà nước được tăng cường, doanh nghiệp nhà nước tiếp tục được đổi mới, cơ cấu lại mà trọng tâm là cổ phần hóa, tự chủ trong kinh doanh và hình thành một số tập đoàn kinh tế lớn, đã góp phần quan trọng để Nhà nước điều tiết nền kinh tế và bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô. Kinh tế tập thể với nhiều hình thức hợp tác đa dạng có bước phát triển đa dạng, nhất là các tổ hợp tác. Kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài phát triển nhanh, góp phần nâng cao trình độ công nghệ, trình độ quản lý và năng lực cạnh tranh của nền kinh tế. Kinh tế tư nhân phát triển nhanh, hoạt động có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực. Hiện nay, đầu tư của khu vực tư nhân chiếm 39,5% (năm 2009) trong tổng đầu tư xã hội, tạo ra 49% việc làm phi nông nghiệp ở nông thôn. Hàng năm, các doanh nghiệp nhỏ và vừa đã tạo ra 90% chỗ làm việc mới. Khu vực kinh tế tư nhân, tập thể và các hộ gia đình đã tạo ra 45% GDP. Các doanh nghiệp cổ phần đang trở thành hình thức tổ chức sản xuất kinh doanh phổ biến, góp phần quan trọng cho phát triển kinh tế - xã hội và cải thiện đời sống nhân dân, thúc đẩy tăng trưởng và tạo việc làm mới. Cơ chế quản lý và phân phối có nhiều đổi mới, ngày càng phù hợp. Các loại thị trường cơ bản đã hình thành và từng bước phát triển thống nhất trong cả nước, gắn kết ngày càng tốt hơn với thị trường thế giới. Môi trường kinh doanh được cải thiện; quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp và của người dân được đảm bảo đầy đủ hơn. Giá cả của hầu hết các hàng hoá và dịch vụ do quan hệ cung cầu thị trường quyết định.

Tuy nhiên thể chế kinh tế thị trường chưa theo kịp yêu cầu phát triển; sức sản xuất chưa được giải phóng triệt để. Quá trình xây dựng thể chế kinh tế thị trường chậm, chưa đồng bộ, môi trường kinh doanh chưa thật sự bình đẳng, thông thoáng, chưa đáp ứng tốt yêu cầu phát triển kinh tế và hội nhập kinh tế quốc tế. Hệ thống luật pháp vẫn còn nhiều bất cập, cơ chế và chính sách chưa đầy đủ, đồng bộ và thống nhất. Sức sản xuất chưa được giải phóng mạnh mẽ. Hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp nhà nước còn thấp, cổ phần hóa còn chậm. Các doanh nghiệp tư nhân còn khó khăn trong việc tiếp cận các nguồn lực. Kinh tế tập thể vẫn còn lúng túng, hợp tác xã và các hình thức hợp tác khác phát triển chậm. Việc hình thành các loại thị trường chậm và chưa đồng bộ. Vai trò, chức năng và nguyên tắc hoạt động khách quan của thị trường chưa được tôn trọng đầy đủ. Tình trạng độc quyền doanh nghiệp chưa được kiểm soát có hiệu quả. Năng lực quản lý và điều hành vĩ mô của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường có mặt còn yếu kém. Nguồn lực quốc gia cho phát triển chưa được phân bổ hợp lý và hiệu quả sử dụng chưa cao, còn lãng phí. Nhà nước chưa kiểm soát được đầy đủ các quan hệ thị trường, còn tồn tại các yếu tố đầu cơ. Chậm hình thành thị trường bất động sản; thị trường lao động còn nhiều yếu kém; thị trường khoa học và công nghệ còn nhỏ bé.

3. Các lĩnh vực văn hoá, xã hội đạt được nhiều thành tựu quan trọng. Đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân được nâng lên. Đã hoàn thành phần lớn mục tiêu Thiên niên kỷ do Liên Hợp quốc đề ra cho năm 2015. Thu nhập thực tế của người dân năm 2008 so với năm 2000 tăng 2,3 lần; chỉ số phát triển con người (HDI) thuộc nhóm trung bình cao của thế giới; tỷ lệ hộ nghèo giảm từ 26% năm 2000 còn khoảng 10% năm 2010. Hàng năm, chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo đã hỗ trợ xây dựng cơ sở hạ tầng cho hàng nghìn xã thuộc vùng đặc biệt khó khăn và hải đảo. Đang triển khai chương trình giảm nghèo cho 62 huyện nghèo nhất cả nước, Ngân hàng chính sách xã hội đã cho khoảng 75% số hộ nghèo vay vốn, chiếm khoảng 15% dân số được hỗ trợ tín dụng. Mạng lưới tài chính vi mô cũng đang dần khẳng định là kênh tài chính quan trọng góp phần đắc lực vào xóa đói giảm nghèo và nâng cao đời sống cho người dân nông thôn. Môi trường sống được quan tâm và có mặt cải thiện. Chương trình quốc gia về ứng phó với biến đổi khí hậu được chủ động triển khai thực hiện.

Công tác đối ngoại, hội nhập quốc tế được mở rộng và phát huy hiệu quả, tạo môi trường hòa bình, ổn định và tăng thêm nguồn lực cho phát triển đất nước. Việt Nam ngày càng khẳng định vai trò là thành viên tích cực và có trách nhiệm trong các tổ chức, diễn đàn quốc tế và khu vực.

Tuy nhiên, các lĩnh vực văn hoá, xã hội có một số mặt yếu kém chậm được khắc phục, nhất là về giáo dục, đào tạo và y tế; đạo đức, lối sống trong một bộ phận xã hội xuống cấp. Đầu tư cho lĩnh vực văn hoá, xã hội chưa đáp ứng yêu cầu; cơ chế, chính sách còn nhiều mặt chậm đổi mới; một số lĩnh vực chưa được quan tâm đúng mức, chuyển biến chậm. Kết quả xóa đói giảm nghèo chưa thật vững chắc, số hộ cận nghèo còn nhiều, tỷ lệ hộ nghèo và tái nghèo còn cao ở những vùng sâu, vùng xa và vùng có nhiều khó khăn. Hệ thống y tế và chất lượng dịch vụ y tế chưa đáp ứng yêu cầu; chính sách và cơ chế quản lý trong lĩnh vực y tế chậm đổi mới, chưa đồng bộ; xã hội hóa trong lĩnh vực y tế còn nhiều hạn chế. An sinh xã hội và phúc lợi xã hội chưa vững chắc. Lao động thiếu việc làm còn nhiều. Chất lượng nguồn nhân lực còn thấp, cơ cấu lao động theo ngành nghề, trình độ chưa hợp lý, thiếu nhiều chuyên gia trình độ cao, đội ngũ quản lý giỏi và công nhân lành nghề, ý thức kỷ luật lao động chưa cao. Cơ cấu ngành nghề chưa hợp lý. Chuyển dịch cơ cấu lao động chậm. Tỷ trọng lao động nông nghiệp vẫn còn cao, chất lượng lao động xuất khẩu ra nước ngoài còn thấp, khả năng hòa nhập, cạnh tranh (trình độ thể lực, ngoại ngữ, kỷ luật lao động) thua kém nhiều so với các nước trong khu vực.

Nguồn nhân lực chưa đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế, chưa đóng góp đáng kể vào nâng cao năng suất, chất lượng phát triển kinh tế - xã hội; chất lượng lao động còn nhiều hạn chế, yếu kém, bất hợp lý về cơ cấu ngành nghề, trình độ, vùng miền và yếu về tính chuyên nghiệp; đặc biệt là thiếu nghiêm trọng đội ngũ chuyên gia lành nghề trình độ cao, đội ngũ cán bộ quản lý giỏi; tỷ lệ lao động qua đào tạo còn thấp (40%).

4. Môi trường sống được quan tâm hơn và từng bước được cải thiện. Công tác môi trường được quan tâm hơn và có những kết quả nhất định. Việc tuyên truyền được chú trọng, nhận thức của các cấp, các ngành và các tầng lớp xã hội được nâng lên một bước. Hệ thống pháp luật, chính sách về môi trường từng bước được xây dựng và hoàn thiện. Đầu tư cho môi trường được tăng cường.

Tuy nhiên, môi trường có mặt vẫn tiếp tục bị xuống cấp, môi trường ở nhiều nơi đang bị ô nhiễm nặng; tài nguyên, đất đai chưa được quản lý tốt, khai thác và sử dụng kém hiệu quả. Ô nhiễm nước, không khí, một số dòng sông ở một số nơi đã đến mức báo động; chưa kiên quyết xử lý, khắc phục các cơ sở gây ô nhiễm nghiêm trọng. Tình trạng phá rừng, cháy rừng ở một số địa phương chưa được ngăn chặn có hiệu quả.

5. Hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước được nâng lên, cải cách hành chính và phòng chống tham nhũng được đẩy mạnh. Đã tăng cường một bước tổ chức và hoạt động của bộ máy nhà nước; hiệu lực, hiệu quả được nâng lên.

Tuy nhiên, hiệu lực hiệu quả quản lý nhà nước còn có mặt bất cập, quản lý nhà nước đối với doanh nghiệp nói chung còn nhiều yêu kém, việc thực hiện chức năng chủ sở hữu đối với doanh nghiệp nhà nước còn bất cập.

II. Những bài học chủ yếu rút ra để thực hiện thắng lợi Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2011-2020

Thực tiễn 10 năm qua khẳng định con đường phát triển của đất nước ta là đúng đắn và có thể rút ra 4 bài học chủ yếu để làm tốt hơn trong thời gian tới:

Một là, phát huy dân chủ, khơi dậy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, huy động và sử dụng có hiệu quả mọi nguồn lực cho phát triển đất nước. Để phát huy quyền làm chủ của nhân dân, khơi dậy sức mạnh tổng hợp của toàn dân tộc, phải thực hiện đổi mới toàn diện và đồng bộ trên tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội với lộ trình và bước đi thích hợp, tập trung vào mở rộng dân chủ trong Đảng và trong xã hội gắn với tăng cường kỷ luật kỷ cương, nâng cao năng lực và tạo cơ chế để nhân dân thực hiện đầy đủ quyền làm chủ và phát huy sức sáng tạo của mình; hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa, tích cực chủ động hội nhập quốc tế, huy động các nguồn lực và tranh thủ điều kiện thuận lợi để xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Những thành tựu to lớn đã đạt được trong 25 năm qua là kết quả của quá trình đổi mới liên tục, từ thấp đến cao. Tuy nhiên, đổi mới có mặt còn chậm, chưa thật sự đồng bộ. Bước sang giai đoạn phát triển mới, Đảng và Nhà nước ta phải giải quyết nhiều vấn đề phức tạp, khó khăn, đòi hỏi phải tiếp tục đổi mới mạnh mẽ hơn; Phải tạo sự đồng thuận cao trong nhận thức và hành động; đổi mới mạnh tư duy phát triển kinh tế - xã hội.

Hai là, đặc biệt coi trọng chất lượng, hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô, giải quyết hài hòa mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng. Phát triển bền vững là yêu cầu đặt ra cho mỗi quốc gia. Trong 10 năm qua, nền kinh tế nước ta đã phát triển khá nhanh, nhưng thực tiễn cho thấy, trong phát triển nhanh phải đặc biệt coi trọng tính bền vững; phải kịp thời chuyển đổi mô hình tăng trưởng, giải quyết hài hoà mối quan hệ giữa phát triển theo chiều rộng và phát triển theo chiều sâu; phải đề cao yếu tố năng suất, chất lượng, hiệu quả, sức cạnh tranh của nền kinh tế và bảo đảm ổn định kinh tế vĩ mô; giải quyết hợp lý mối quan hệ giữa tốc độ và chất lượng tăng trưởng, thực hiện mô hình tăng trưởng theo chiều sâu; gắn kết hài hoà giữa phát triển kinh tế với phát triển văn hoá, xã hội, thực hiện dân chủ, tiến bộ và công bằng xã hội, phát triển toàn diện con người, bảo vệ môi trường; giải quyết tốt mối quan hệ giữa ổn định, đổi mới và phát triển; phát triển trong giai đoạn này phải tạo tiền đề cho sự phát triển vững chắc trong giai đoạn sau.

Ba là, bảo đảm độc lập tự chủ và chủ quyền quốc gia, giữ vững ổn định chính trị - xã hội, tích cực, chủ động hội nhập quốc tế, tạo môi trường thuận lợi cho phát triển đất nước. Thực tiễn nước ta và tình hình thế giới, khu vực cho thấy, ổn định chính trị - xã hội là điều kiện tiên quyết để phát triển và đây là lợi thế của nước ta. Phải thực hiện đồng bộ và có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, chăm lo đời sống của nhân dân, thực hiện tốt nhiệm vụ quốc phòng, an ninh và đối ngoại; xây dựng Đảng và Nhà nước trong sạch vững mạnh, gắn bó mật thiết với nhân dân và tăng cường khối đại đoàn kết toàn dân tộc để bảo đảm ổn định chính trị - xã hội ngày càng vững chắc.

Bốn là, bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của và nước, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là ba nội dung gắn kết trong một chỉnh thể thống nhất, hình thành cơ chế vận hành của chế độ chính trị ở nước ta. Sự gắn kết thiếu chặt chẽ ba nội dung này làm yếu đi sự lãnh đạo của Đảng, giảm hiệu lực hiệu quả quản lý của Nhà nước và hạn chế việc thực hiện quyền làm chủ thật sự của nhân dân.

Trong điều kiện càng đi sâu vào kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước phải giải quyết nhiều vấn đề mới, phức tạp, do đó, phải xây dựng cho được thiết chế thích hợp tạo sự gắn kết và phát huy cao nhất hiệu quả của cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ để tiếp tục nâng cao vai trò lãnh đạo cầm quyền của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý điều hành tổ chức thực hiện của Nhà nước và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, nhất là dân chủ trực tiếp.

Năm là, bảo đảm gắn kết chặt chẽ giữa tăng cường sự lãnh đạo của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước, phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân. Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ là ba nội dung gắn kết trong một chỉnh thể thống nhất, hình thành cơ chế vận hành của chế độ chính trị ở nước ta. Sự gắn kết thiếu chặt chẽ ba nội dung này làm yếu đi sự lãnh đạo của Đảng, giảm hiệu lực hiệu quả quản lý của Nhà nước và hạn chế việc thực hiện quyền làm chủ thật sự của nhân dân.

Trong điều kiện càng đi sâu vào kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, Đảng và Nhà nước phải giải quyết nhiều vấn đề mới, phức tạp, do đó, phải xây dựng cho được thiết chế thích hợp tạo sự gắn kết và phát huy cao nhất hiệu quả của cơ chế Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ để tiếp tục nâng cao vai trò lãnh đạo cầm quyền của Đảng, nâng cao hiệu lực quản lý điều hành tổ chức thực hiện của Nhà nước và phát huy đầy đủ quyền làm chủ của nhân dân, nhất là dân chủ trực tiếp.


Không có nhận xét nào: